Văn hóa Người_Mã_Lai

Ngôn ngữ

Câu khắc Kedukan Bukit viết bằng chữ Pallava. Có niên đại từ năm 683, và là đồ tạo tác lâu đời nhất còn tồn tại viết bằng tiếng Mã Lai.
Bài chi tiết: tiếng Mã Lai

Tiếng Mã Lai là một trong các ngôn ngữ chính trên thế giới và của Ngữ hệ Nam Đảo. Các biến thể và phương ngữ của tiếng Mã Lai là ngôn ngữ chính thức tại Brunei, Malaysia, IndonesiaSingapore. Ngôn ngữ này cũng được nói tại Thái Lan, quần đảo Cocos, đảo Christmas, Sri Lanka. Tiếng Mã Lai là ngôn ngữ bản địa của xấp xỉ 33 triệu người trên khắp quần đảo Mã Lai và được xấp xỉ 220 triệu người sử dụng như ngôn ngữ thứ hai.[75]

Việc khám phá ra câu khắc Kedukan Bukit đã chứng thực hình thái Srivijaya của tiếng Mã Lai cổ, được viết bằng chữ Pallava và chịu ảnh hưởng mạnh của tiếng Phạn. Sự nổi lên của vương quốc Malacca đã khởi sự cho cuộc cách mạng phát triển tiếng Mã Lai cổ thành tiếng Mã Lai cổ điển. Thời kỳ Malacca đánh dấu việc tiếng Mã Lai biến đổi thành một ngôn ngữ Hồi giáo, kiểu cách tương đồng với tiếng Ả Rập, tiếng Ba Tư, tiếng Urdutiếng Swahili. Một kiểu chữ viết phỏng theo chữ cái Ả Rập gọi là Jawi đã được sử dụng và thay thế kiểu chữ Ấn Độ, các thuật ngữ tôn giáo và văn hóa Hồi giáo được đồng hóa nhiều, cùng với đó là thải hồi nhiều từ Ấn Độ giáo-Phật giáo, và tiếng Mã Lai trở thành ngôn ngữ trung gian trong việc truyền dạy và phổ biến Hồi giáo ra khắp Đông Nam Á. Vào đỉnh cao của vương quốc Malacca trong thế kỷ XV, tiếng Mã Lai cổ điển đã vượt quá phạm vi của thế giới nói tiếng Mã Lai truyền thống[76] và kết quả là một ngôn ngữ chung được gọi là Bahasa Melayu pasar ("tiếng Mã Lai ở chợ") hoặc Bahasa Melayu rendah ("tiếng Mã Lai thấp") được phát triển và đối nghịch với Bahasa Melayu tinggi ("tiếng Mã Lai cao") của Malacca.[77] Người ta cho rằng tiếng Mã Lai ở chợ là một thứ tiếng bồi và thậm chí nó đã tạo ra các ngôn ngữ mới như tiếng Mã Lai Ambon, tiếng Mã Lai Manado và tiếng Betawi.[78]

Các nhà văn châu Âu trong thế kỷ XVII và XVIII như Tavernier, ThomassinWerndly đã mô tả tiếng Mã Lai là "ngôn ngữ được học trên khắp Đông Ấn, giống như tiếng Latinh tại châu Âu".[79] Ngôn ngữ này được sử dụng rộng rãi nhất khi người Anh và Hà Lan thuộc địa hóa quần đảo Mã Lai.[80] Phương ngữ của vương quốc Johor, quốc gia kế thừa của Malacca, trở thành cách nói tiêu chuẩn đối với người Mã Lai tại SingaporeMalaysia, và nó là cơ sở ban đầu để chuẩn hóa tiếng Indonesian.[76][81][82][83]

Ngoài tiếng Mã Lai chuẩn, được phát triển trong phạm vi Malacca-Johor, nhiều phương ngữ Mã Lai bản địa cũng tồn tại. Ví dụ, tiếng Bangka, tiếng Mã Lai Brunei, tiếng Jambi, tiếng Kelantan, tiếng Kedah, Negeri Sembilan, Palembang, tiếng Pattani, tiếng Sarawak, tiếng Terengganu, và nhiều phương ngữ khác.

Trong lịch sử, tiếng Mã Lai từng được viết bằng các loại chữ Pallava, KawiRencong. Sau khi Hồi giáo du nhập, chữ cái Jawi dựa trên cơ sở chữ Ả Rập được chấp thuận và vẫn còn được sử dụng đến ngày nay với vị thế là một trong hai kiểu chữ chính thức tại Brunei và một loại chữ thay thế tại Malaysia.[84] Bắt đầu từ thế kỷ XVII, do kết quả của quá trình thuộc địa hóa, chữ Jawi dần bị chữ Latinh thay thế[85] và cuối cùng trở thành kiểu chữ chính thức hiện nay của tiếng Mã Lai tại Malaysia, Singapore và Indonesia, và là kiểu chữ đồng chính thức của Brunei.

Văn học

Hikayat Merong Mahawangsa viết bằng chữ Jawi. Còn được gọi là Biên niên sử Kedah, một tác phẩm văn chương tiếng Mã Lai cổ xưa và ghi chép về huyết thống của Merong Mahawangsa và việc thành lập Kedah.

Nền văn học truyền miệng và văn học cổ điển của người Mã Lai có sự phong phú, bao gồm một lượng rất lớn các hình tượng về con người, từ đầy tớ cho đến tể tướng, từ những người phân sử cho đến các Raja, từ thời cổ cho đến thời gian gần đây, chúng tạo thành bản sắc vô định hình của người Mã Lai.[86]

Xét trên sự mềm dẻo và dịu dàng của tiếng Mã Lai, nó dễ dàng tuân theo luật về vần và âm điệu, có thể đánh giá tính độc đáo và cái hay trong văn học Mã Lai thông qua các yếu tố đầy thi vị của nó. Các thể loại thi ca trong văn học Mã Lai có thể kể tới Pantun, SyairGurindam. Hình thức đầu tiên của văn học Mã Lai là văn học truyền miệng và các đối tượng trung tâm của nó là những tập quán dân gian truyền thống có liên hệ với tự nhiên, động vật và con người. Văn hóa dân gian được con người ghi nhớ và được truyền từ thế kệ này sang thế hệ khác thông qua những người kể chuyện. Nhiều trong số các truyện kể này cũng được penglipur lara (những người kể chuyện) ghi lại, ví dụ như: Hikayat Malim Dewa, Hikayat Malim Deman, Hikayat Raja Donan, Hikayat Anggun Cik Tunggal và Hikayat Awang Sulung Merah Muda.

Khi quần đảo Mã Lai tiếp nhận ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ vào khoảng 2000 năm trước, văn học Mã Lai bắt đầu dung hợp các yếu tố Ấn Độ. Văn học trong thời gian này hầu hết là dịch thuật từ văn học tiếng Phạn, hoặc ít nhất là lấy cảm hứng từ chúng, và hoàn toàn ám chỉ đến những thần thoại Hindu. Có thể hiểu về văn học thời kỳ này thông qua một số tác phẩm như Hikayat Seri Rama (một bản dịch thoát ý của Ramayana), Hikayat Bayan Budiman (phỏng theo Śukasaptati) và Hikayat Panca Tanderan (phỏng theo Hitopadesha).[87]

Thời kỳ của văn học cổ điển Mã Lai bắt đầu sau khi Hồi giáo được truyền đến, cùng với đó là phát minh ra chữ Jawi (dựa trên chữ Ả Rập). Từ đó, các đức tin và khái niệm Hồi giáo bắt đầu ghi dấu ấn của mình trong văn học Mã Lai. Đá khắc chữ Terengganu, có niên đại từ năm 1303, là những chữ viết sớm nhất được biết đến của văn kể chuyện Mã Lai. Khối đá được khắc lên một bản văn nói về lịch sử, luật pháp và ái tình bằng chữ Jawi.[88] Vào lúc đỉnh cao, vương quốc Malacca không chỉ là trung tâm của quá trình Hồi giáo hóa trong khu vực mà còn là trung tâm của văn hóa Mã Lai bao gồm cả văn học. Trong thời kỳ này, các tác phẩm văn học Trung Đông nổi tiếng đã được dịch và các sách tôn giáo được viết bằng tiếng Mã Lai. Trong số các tác phẩm nổi tiếng nhất, có Hikayat Muhammad HanafiahHikayat Amir Hamzah.

Bộ phận quan trọng nhất của văn học Mã Lai có lẽ là Biên niên sử Mã Lai hay Sulalatus Salatin lừng danh. Nó được một trong số những học giả nổi tiếng nhất trên lĩnh vực Mã Lai học, Ngài Richard O. Winstedt gọi là "nổi tiếng nhất, đặc biệt nhất và tốt nhất trong tất cả các tác phẩm văn học Mã Lai".[89] Niên đại chính xác về thời điểm sáng tác và tác giả gốc của tác phẩm này vẫn chưa chắc chắn, song theo một chiếu chỉ của Quốc vương Alauddin Riaayat Shah III của Johor vào năm 1612, Tun Sri Lanang giám thị quá trình biên soạn của Biên niên sử Mã Lai.[90]

Trong thế kỷ XIX, văn học Mã Lai đã thu được một số thành tự đáng chú ý thông qua các tác phẩm của Abdullah bin Abdul Kadir, một "munshi" nổi tiếng tại Singapore và sinh ra ở Malacca.[87] Abdullah được xem như người Mã Lai có học thức nhất trong số những người từng viết văn,[87] một số những nhà cải cách vĩ đại nhất của nền văn chương Mã Lai[76] và là cha đẻ của văn học Mã Lai hiện đại.[88] Các tác phẩm quan trọng nhất của ông là Hikayat Abdullah (tự truyện), Kisah Pelayaran Abdullah ke Kelantan (miêu tả về chuyến đi của ông tới Kelantan) và Kisah Pelayaran Abdullah ke Mekah (thường thuật về chuyến hành hương của ông đến Mecca vào năm 1854). Tác phẩm của ông là một nguồn cảm hứng cho các thế hệ nhà văn tương lai và đánh dấu một giai đoạn đầu trong quá trình chuyển đổi từ văn học Mã Lai cổ điển sang văn học Mã Lai hiện đại.[76]

Tôn giáo

Nhà thờ Sultan Omar Ali Saifuddin tại Brunei vào đêm trước của Ramadhan. Vương quốc thịnh vượng này đã tiếp nhận Melayu Islam Beraja (nền Quân chủ Hồi giáo Mã Lai) như là triết lý quốc gia kể từ khi giành được độc lập vào năm 1984.

Các cộng đồng Mã Lai đầu tiên phần lớn theo thuyết vật linh, tin tưởng rằng semangat (linh hồn) tồn tại trong mọi thứ.[41] Khoảng đầu Công Nguyên, Ấn Độ giáoPhật giáo đã được các thương nhân Ấn Độ đưa đến quần đảo Mã Lai, hai tôn giáo này phát triển mạnh mẽ tại khu vực cho đến thế kỷ XIII, ngay trước khi Hồi giáo xuất hiện nhờ các thương nhân Ả Rập cùng thương nhân Ấn Độ và Trung Hoa theo Hồi giáo.

Trong thế kỷ XV, Hồi giáo Sunni phát triển mạnh mẽ trong thế giới Mã Lai thuộc vương quốc Malacca. Tương phản với Ấn Độ giáo khi chỉ biến đổi xã hội Mã Lai ban đầu về bề ngoài, Hồi giáo đã thực sự bắt rễ vào sâu trong tâm tâm trí của người Mã Lai.[91] Từ thời kỳ này, người Mã Lai có truyền thống gắn bó chặt chẽ với Hồi giáo[92] và họ không thay đổi tôn giáo của mình từ đó.[91] Bản sắc này rất mạnh đến nỗi để trở thành người Hồi giáo thì phải là masuk Melayu.[52]

Tuy thế, niềm tin trước đó đã bám rễ sâu hơn, người Mã Lai đã giữ cho mình chống lại các lời nguyền của Hồi giáo – và thực vậy Sufism hay huyền học của Hồi giáo Shia đã quyện vào nhau đối với người Mã Lai, cùng với các linh hồn của thế giới duy linh trước đó và một số yếu tố Ấn Độ giáo.[93] Sau thập niên 1970, Hồi giáo phục hưng (còn gọi là tái Hồi giáo hóa[94]) trên khắp thế giới Hồi giáo, nhiều truyền thống trái với giáo lý của Hồi giáo và có chứa các yếu tố shirk đã bị người Mã Lai từ bỏ. Trong số các truyền thống này có lễ hội mandi safar (tắm Safar), một lễ hội tắm rửa để đạt được sự tinh khiết trong tâm hồn, có thể có các đặc tính tương tự như Durga Puja của Ấn Độ.[95]

Tuyệt đại đa số người Mã Lai hiện nay là những tín đồ Hồi giáo Sunni[96] và các lễ hội quan trọng nhất đối với người Mã Lai đều có nguồn gốc Hồi giáo - Hari Raya Aidilfitri, Hari Raya Aidiladha, Awal MuharramMaulidur Rasul. Với hầu hết người Mã Lai, việc cải đạo khỏi Hồi giáo bị xem là "bội giáo". Chỉ có một thiểu số rất nhỏ người Mã Lai sinh sống ở Singapore là Kitô hữu.

Kiến trúc

Bản sao cung điện của vương quốc Melaka, được xây dựng dựa trên các thông tin và dữ liệu lấy từ Biên niên sử Mã Lai. Bản văn lịch sử này có giới thiệu về việc xây dựng và kiến trúc của các cung điện trong thời gian trị vì của Quốc vương Mansur Shah, tức từ 1458 đến 1477.

Ảnh hưởng của nhiều nền văn hóa khác nhau, đặc biệt là văn hóa Trung Quốc, Ấn Độ và châu Âu, đã giữ vai trò chính trong việc hình thành nên kiến trúc Mã Lai.[97] Cho đến gần đây, gỗ là vật liệu chính tại rất cả các tòa nhà truyền thống Mã Lai.[98] Tuy nhiên, cũng có nhiều cấu trúc bằng đá đã được phát hiện, chủ yếu là các khu phức hợp tôn giáo từ thời Srivijaya và các vương quốc Mã Lai eo đất cổ.

Candi Muara TakusCandi Muaro Jambi tại Sumatra là những điển hình cho mối liên hệ với các yếu tố kiến trúc của đế chế Srivijaya. Tuy nhiên, hầu hết các kiến trúc Srivijaya có thể tìm thấy đại diện tại Chaiya (nay thuộc Thái Lan) trên bán đảo Mã Lai, đây là một trung tâm rất quan trọng trong thời kì Srivijaya.[99][100] Cấu trúc bao gồm một buồng nhỏ để làm nơi đặt hình tượng Phật và đỉnh của cấu trúc được xây thẳng đứng theo kiểu tháp với các mái bằng kế tiếp và chồng lên nhau với điển hình là Wat Pra Borom That ở Chaiya.[101]

Cũng có bằng chứng về những đền thờ Ân Độ giáo hay Candi quanh khu vực phía nam Kedah giữa núi Jerai và thung lũng sông Muda, một khu vực được gọi là Thung lũng Bujang. Trong một diện tích khoảng 350 km², 87 di chỉ tôn giáo được xác nhận là từ thời lịch sử ban đầu và có 12 candi nằm trên các đỉnh núi, một đặc điểm khiến người ta phải nghĩ đến việc chúng bắt nguồn từ đức tin Mã Lai thời tiền sử về tính linh thiêng của những nơi có độ cao.[102]

Có thể tham khảo về kiến trúc Mã Lai thời kỳ đầu trong một vài thư tịch Trung Quốc. Một tài liệu của Trung Quốc từ thế kỷ thứ VII đã thuật lại về những người hành hương Phật giáo đến thăm Langkasuka và nói rằng thành phố có một bức tường bao quanh và trên đó có xây các tòa tháp và lối vào có các cửa đôi.[103] Một tài liệu Trung Quốc khác từ thế kỷ thứ VII kể về một sứ thần Nhà Đường đến nước Xích Thổ ở bán đảo Mã Lai, nó ghi lại rằng kinh đô có ba cửa cách nhau hàng trăm bước, được trang trí bằng các bức tranh về chủ đề Phật giáo và linh hồn phụ nữ.[104]

Mô tả chi tiết đầu tiên về kiến trúc Mã Lai là đại cung điện bằng gỗ của Quốc vương Mansur Shah (trị vì 1458–1477) của vương quốc Malacca.[98] Theo Biên niên sử Mã Lai, công trình có kết cấu bảy gian được nâng lên trên các cột trụ bằng gỗ với một mái nhà có bảy lớp bằng các ván lợp có màu đồng và được trang trí với các ngọn tháp mạ vàng và gương thủy tinh Trung Hoa.[105]

Những ngôi nhà Mã Lai truyền thống được xây dựng chỉ bằng cấu trúc khung gỗ đơn giản. Chúng có mái dốc, hiên ở phía trước, trần nhà cao, có nhiều khe hở trên các bức tường để thông gió,[106] và thường được trang trí bằng các mộc điêu công phu. Vẻ đẹp và chất lượng của mộc điêu Mã Lai sẽ là hình ảnh thể hiện địa vị xã hội và tình trạng của những người sở hữu chúng.[107]

Trong nhiều thập niên, kiến trúc Mã Lai truyền thống đã bị ảnh hưởng từ kiến trúc BugisJava từ phía nam, kiến trúc Xiêm La, Anh, Ả RậpẤn Độ từ phía bắc, kiến trúc Bồ Đào Nha, Hà Lan, AcehMinangkabau từ phía tây cùng kiến trúc Hoa Nam.[108]

Ẩm thực

Bài chi tiết: Ẩm thực Mã Lai

Các khu vực Mã Lai khác nhau đều có một ăn độc nhất của riêng mình – Pattani, TerengganuKelantan với món Nasi dagang, Nasi kerabu và Keropok lekor, Negeri Sembilan với các món ăn có nhiều chất béo, Pahang với gulai tempoyak, Kedah với phong cách phương bắc Asam laksa, Malacca với gia vị Asam Pedas, PerlisSatun với Bunga kuda, SarawakSambas với Bubur pedas, Riau với các món ikan patin (cá tra); Gulai ikan patin và Asam Pedas ikan patin, Melayu Deli của Medan Bắc Sumatra với Nasi goreng teri Medan (cơm chiên cá trổng Medan) và Gulai Ketam (cua gulai),[109] Jambi với Panggang Ikan Mas, Palembang với Mie celorPempekBrunei với món Ambuyat độc nhất.

Đặc điểm chính của ẩm thực truyền thống Mã Lai là việc sử dụng rộng rãi các loại gia vị. Nước cốt dừa cũng là một nguyên liệu quan trọng trong các món ăn Mã Lai với vị ngậy, kem. Một nguyên liệu khác là belacan (mắm ruốc), được sử dụng làm một nguyên liệu của sambal, một loại nước chấm hay gia vị làm từ belacan, ớt, hànhtỏi. Cách nấu nướng Mã Lai cũng sử dụng nhiều sảriềng.[110]

Gần như mọi bữa ăn của người Mã Lai đều có cơm, thực phẩm thiết yếu trong nhiều nền văn hóa Đông Á và Nam Á. Mặc dù trong một bữa ăn của người Mã Lai có rất nhiều loại món ăn, song chúng đều được bày ra cùng một lúc thay vì lần lượt. Người Mã Lai ăn một cách tế nhị, họ dùng các ngón tay của bàn tay phải và không bao giờ dùng bàn tay trái vì bàn tay này dùng để tắm rửa, và người Mã Lai hiếm khi sử dụng các dụng cụ trong bữa ăn.[111] Do tuyệt đại đa số người Mã Lai theo Hồi giáo, nền ẩm thực Mã Lai tuân theo luật về chế độ ăn uống nghiêm ngặt của Hồi giáo-halal. Lượng Protein chủ yếu là từ thịt bò, trâu, , và cừu, ngoài ra còn có thịt gia cầm và cá. Thịt lợn và các loại thịt trái với halal, cũng như rượu, bị cấm và vắng mặt trong chế độ ăn uống thường nhật của người Mã Lai.

Nasi lemak, một loại cơm nấu bằng nước cốt dừa ngậy béo có lẽ là món ăn phổ biến nhất ở khắp các đô thị và làng mạc Mã Lai. Nasi lemak được xem là quốc thực của Malaysia.[112]

Nghệ thuật biểu diễn

Biểu diễn vũ điệu Joget.

Người Mã Lai sở hữu một tập hợp gồm nhiều thể loại ca vũ, hợp nhất từ nhiều ảnh hưởng văn hóa khác nhau. Các thể loại tiêu biểu bao gồm các vũ kịch dân gian truyền thống Mã Lai như Mak yong đến các vũ điệu chịu ảnh hưởng của Ả Rập như Zapin. Các phong trào sáng tác cùng dàn dựng cũng thay đổi từ các bước nhảy và giai điệu đơn giản trong Dikir barat đến các chuyển động phức tạp như Joget Gamelan.

Âm nhạc Mã Lai truyền thống về cơ bản là các điệu gõ. Các loại cồng chiêng khác nhau tạo nhịp cho nhiều vũ điệu. Ngoài ra còn có trống với các kích cỡ khác nhau, từ loại lớn rebana ubi dùng cho các sự kiện quan trọng đến loại nhỏ như jingled-rebana (trống khung) dùng làm một nhạc đệm cho các xướng âm trì tụng trong các nghi lễ tôn giáo.[113]

Âm nhạc Nobat là một phần của các biểu trưng vương giả trong các triều đình Mã Lai kể từ khi Hồi giáo du nhập trong thế kỷ XII và chỉ được tiến hành trong các nghi lễ triều đình quan trọng. Dàn nhạc của nó gồm có nhạc cụ linh thiêng và được tôn sùng như nehara (Trống định âm), gendang (trống hai đầu), nafiri (trumpet), serunai (ô-boa), và đôi khi có một cái chiêng gắn núm và một đôi chũm choẹ.[114]

Ảnh hưởng của Ấn Độ thể hiện mạnh mẽ trong múa rối bóng truyền thống được gọi là Wayang Kulit, các câu truyện biểu diễn bắt nguồn từ sử thi Hindu; các tiết mục chính bắt nguồn từ Ramayana & Mahabharata. Có bốn thể loại múa rối bóng đặc biệt có thể tìm thấy trên bán đảo Mã Lai: Wayang Gedek, Wayang Purwa, Wayang Melayu và Wayang Siam.[115][116][117]

Các loại hình nghệ thuật biểu diễn Mã Lai nổi tiếng khác là: kịch Bangsawan, tình ca Dondang Sayang và vũ điệu Mak Inang từ vương quốc Melaka, kịch JikeyMek Mulung từ Kedah, vũ điệu Asyik và vũ kịch Menora từ PataniKelantan, vũ điệu Ulek mayangRodat đến từ Terengganu, kịch Boria từ Penang, vũ điệu Canggung từ Perlis, kể chuyện thơ Mukun từ BruneiSarawak[118][119][120] cùng vũ điệu Serampang Dua Belas từ Serdang.[120]

Trang phục truyền thống

Một cô gái Palembang trong trang phục khiêu vũ Gending Sriwijaya truyền thống, Nam Sumatra, Indonesia.

Trong văn hóa Mã Lai, quần áo và vải dệt được tôn sùng như là các hạng mục thể hiện vẻ đẹp, quyền lực và thân phận. Nhiều mô tả trong các Hikayat Mã Lai đã nhấn mạnh vị trí đặc biệt của vải dệt.[121] Kỹ nghệ khung cửi Mã Lai có thể truy nguyên nguồn gốc từ thế kỷ thứ XIII khi tuyến thương mại phía Đông phát triển mạnh dưới thời Nhà Tống. Các tư liệu Trung Hoa và Ả Rập đã đề cập đến hàng vải dệt được sản xuất tại địa phương cũng như ưu thế của ngành dệt trên bán đảo Mã Lai.[122] Trong số các loại vải dệt nổi tiếng của người Mã Lai, có thể kể đến SongketBatik.

Trang phục Mã Lai cổ điển dùng chung cho nam giới bao gồm một baju (áo sơ mi) hay tekua (một loại áo sơ mi ống tay dài), baju rompi (áo gi-lê), kancing (cúc áo), một celana (quần) ống nhỏ, một sarong quấn quanh eo, capal (dép), và một tanjak hay tengkolok (); quý tộc còn vận thêm baju sikap hay baju layang (một loại áo choàng ngoài) và pending (khóa thắt lưng trang trí). Một chiến binh Mã Lai cũng thường có một Kris (dao lăm) nhét vào phía trước của sarong.

Các loại trang phục truyền thống Mã Lai có sự khác biệt theo vùng song trang phục truyền thống phổ biến nhất hiện nay là Baju Kurung (cho đàn bà) và Baju Melayu (cho đàn ông), cả hai đều được công nhận là quốc phục của MalaysiaBrunei,[123][124] và cũng được cộng đồng Mã Lai tại Indonesia, Singapore và Thái Lan mặc. Baju Melayu hiện nay chỉ còn được đàn ông Mã Lai mặc trong các buổi lễ, còn Baju Kurung thì được phần lớn phụ nữ Mã Lai mặc quanh năm.

Võ thuật

Bài chi tiết: Pencak Silat

Người ta có thể thấy Pencak Silat và các biến thể của nó xuất hiện ở khắp nơi trong thế giới Mã Lai: bán đảo Mã Lai, Singapore, Quần đảo Riau, Sumatra và các khu vực ven biển của Borneo. Các bằng chứng khảo cổ cho thấy rằng vào thế kỷ thứ VI, nghệ thuật chiến đấu đã được nghi thức hóa và được tập luyện trên bán đảo Mã Lai và Sumatra.[125] Các thể thức sớm nhất của Pencak Silat được cho là đã được phát triển và được sử dụng trong lực lượng quân đội của các vương quốc Mã Lai cổ như Langkasuka (thế kỷ II)[126][127] và Srivijaya (thế kỷ VII).

Tầm ảnh hưởng của các vương quốc Hồi giáo Mã Lai như Malacca, Johor, PattaniBrunei đã góp phần vào việc truyền bá loại võ thuật này tại quần đảo Mã Lai. Thông qua một mê cung phức tạp các eo biển và sông đã tạo điều kiện trao đổi thương mại trên khắp khu vực, Pencak Silat đã theo đó đi tận vào các khu vực rừng rậm và lên các vùng đồi núi. Đô đốc Hang Tuah huyền thoại của Malacca là một pesilat (người tập Pencak Silat) nổi tiếng nhất trong lịch sử[128] và thậm chí được một số người xem là cha đẻ của silat Mã Lai.[129] Từ thời cổ điển, Silat Mã Lai trải qua quá trình đa dạng hóa to lớn và tạo thành thứ truyền thống mà ngày nay được công nhận là nguồn gốc của Pencak Silat Indonesia và các dạng khác của Pencak Silat tại Đông Nam Á.[130][131]

Bên cạnh Silat, những người Mã Lai chủ yếu sống ở các địa bàn miền bắc bán đảo Mã Lai cũng luyện tập Tomoi. Đây là một dạng biến thể Đông Dương của môn kickboxing, được cho là đã truyền bá tại Đông Nam Á lục địa từ thời Phù Nam (68 SCN).

Trò chơi truyền thống

Một xưởng sản xuất Wau tại Kelantan, Malaysia.

Các trò chơi Mã Lai truyền thống thường đòi hỏi các kĩ năng thủ công tinh xảo và khéo tay và có thể truy nguyên nguồn gốc từ thời vương quốc Malacca. Cầu mâydiều nằm trong số các trò chơi truyền thống được nói tới trong Biên niên sử Mã Lai, theo đó chúng là trò chơi của giới quý tộc và các thành viên vương giả của vương quốc Mã Lai.[132][133][134]

Sepak Raga là một trong số các trò chơi Mã Lai phổ biến nhất và đã được chơi trong nhiều thế kỉ. Theo truyền thống, Sepak raga được chơi trong vòng tròn bằng cách đá và người chơi giữ quả cầu mâu ở trên cao bằng bất kì bộ phận nào trên cơ thể họ ngoại trừ tay. Trò chơi này hiện nay được công nhận là môn thể thao quốc gia của Malaysia[135][136] và từng được chơi trong các sự kiện thể thao quốc tế như Á vận hộiSEA Games.

Trò chơi phổ biến khác là con quay Gasing, thường được chơi sau mùa gặt. Người thợ thủ công cần phải có một kĩ năng tuyệt vời để sản xuất ra Gasing (con quay) tranh đua nhất, một số con quay có thể quay tới hai giờ liên tục.[137]

Có lẽ trò chơi Mã Lai phổ biến nhất là Wau (một loại diều độc nhất đến từ bờ biển phía đông của bán đảo Mã Lai). Trong cuộc thi thả diều Wau, ban giám khảo trao thưởng sẽ chấm điểm về độ khéo léo (Wau là các vật thể đẹp và đầy màu sắc được gắn trên khung tre), âm thanh (tất cả diều Mã Lai đều được thiết kế để tạo ra một âm thanh đặc trưng khi nó bay trong gió) và độ cao.[137]

Người Mã Lai cũng tạo ra một biến thể của trò chơi trên bàn Mancala gọi là Congkak. Trò chơi được tiến hành bằng cách di chuyển các hòn đá, hạt hoặc vỏ cây quanh một tấm ván bằng gỗ có 12 lỗ hoặc nhiều hơn. Mancala được công nhận là trò chơi cổ xưa nhất trên thế giới và có thể truy nguyên nguồn gốc từ thời Ai Cập cổ đại. Khi du nhập ra toàn cầu, mỗi nền văn hóa lại phát minh ra biến thể riêng của mình, trong đó có người Mã Lai.[138]

Tên gọi và tước hiệu

Tên riêng của người Mã Lai có sự phức tạp, phản ánh thứ bậc của xã hội, và tước hiệu được coi trọng. Tên người Mã Lai nói chung đã trải qua những biến đổi to lớn, tiến triển theo thời gian và phản ánh các ảnh hưởng khác nhau mà người Mã Lai tiếp nhận. Mặc dù một số tên gọi Mã Lai vẫn duy trì một phần ảnh hưởng của tiếng Mã Lai bản địa và tiếng Phạn, song vì là người Hồi giáo nên người Mã Lai từ lâu đã chuộng sử dụng tên Ả Rập như là dấu hiệu thể hiện tôn giáo của họ.

Tên người Mã Lai theo kiểu phụ danh và có thể được xem là bao gồm bốn bộ phận: một tước hiệu, một tên riêng, họ (tên cha), và một mô tả về quan hệ cha con. Một số tên riêng của người Mã Lai có thể bao gồm cả tên đôi của cha người đó, do đó tạo thành một tên dài hơn. Ví dụ, một cầu thủ Malaysia có tên gọi đầy đủ là Mohd Aidil Zafuan Abdul Radzak, trong đó 'Mohd Aidil Zafuan' là tên riêng và 'Abdul Radzak' là tên đôi của cha người này.

Ngoài hệ thống tên gọi, trong tiếng Mã Lai cũng có một hệ thống phức tạp các tước hiệu và kính ngữ, đến nay vẫn còn được sử dụng rộng rãi tại MalaysiaBrunei. Với việc đặt các tước hiệu Mã Lai này vào một tên gọi Mã Lai thông thường, sẽ tạo nên một tên gọi phức tạp hơn. Ví dụ, Thủ tướng Malaysia có tên đầy đủ là Dato' Seri Mohd Najib bin Tun Haji Abdul Razak, trong đó 'Dato' Seri' là một tước hiệu Mã Lai vinh dự, 'Mohd Najib' là tên riêng, 'bin' có nguồn gốc từ "Ibnu" trong tiếng Ả Rập và có nghĩa là "con trai của" (nếu là nữ thì thay bằng binti, bắt nguồn từ "bintun" trong tiếng Ả Rập có nghĩa là "con gái của"), 'Tun' là một vinh dự cao hơn, 'Haji' biểu thị chuyến hành hương của cha ông đến Mecca, và 'Abdul Razak' là tên riêng của cha ông.

Tuy nhiên, các nhân vật vương giả Mã Lai còn có tổ hợp tên gọi phức tạp hơn. Ví dụ như Yang di-Pertuan Agong của Malaysiatôn hiệu đầy đủ là Duli Yang Maha Mulia Almu'tasimu Billahi Muhibbuddin Tuanku AlHaj Abdul Halim Mu'adzam Shah Ibni AlMarhum Sultan Badlishah, trong khi Quốc vương Brunei có tên gọi chính thức là Kebawah Duli Yang Maha Mulia Paduka Seri Baginda Sultan Haji Hassanal Bolkiah Mu'izzaddin Waddaulah ibni Al-Marhum Sultan Haji Omar 'Ali Saifuddien Sa'adul Khairi Waddien.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Người_Mã_Lai http://www.kkbs.gov.bn/html/pakaian_tradisi.htm http://www.pelitabrunei.gov.bn/news/pelita/01julai... http://us.detikfood.com/read/2010/06/21/160229/138... http://www.guoxue.com/shibu/24shi/yuanshi/yuas_210... http://kebunketereh.com/?p=387 http://www.malaysia.com/nasi-lemak-food.html http://melayuonline.com/eng/about/dig/2 http://www.omniglot.com/writing/malay.htm http://www.scribd.com/doc/82001895 http://asalehudin.wordpress.com/2009/04/25/serampa...